Đăng nhập / Đăng ký
Dòng họ

Dòng họ
HỌ MAI VIỆT NAM

Nền tảng Ứng dụng
Họ Mai Việt Nam


Ứng dụng Android Họ Mai Việt Nam Ứng dụng IOS Họ Mai Việt Nam Ứng dụng Web Họ Mai Việt Nam

Thông tin dòng họ

Họ Mai Kiên Lao ( Xuân Tiến - Xuân trường- nam định)
Họ Mai Kiên Lao ( Xuân Tiến - Xuân trường- nam định)
(là nhánh của dòng họ Họ Mai Kiên Lao ( Xuân Tiến - Xuân trường- nam định))
Họ Mai Kiên Lao ( Xuân Tiến - Xuân trường- nam định)
Quy mô: 500 người
Địa chỉ: Việt nam, Xã Xuân Tiến, Huyện Xuân Trường, Nam Định
Điện thoại: 0828398396
Ngày đăng: 2025-02-21 07:53:42
Lượt xem: 193

XEM GIA PHẢ



VỊ TRÍ DÒNG HỌ


CHI NHÁNH Họ Mai Kiên Lao ( Xuân Tiến - Xuân trường- nam định)

Họ Mai Kiên Lao ( Xuân Tiến - Xuân trường- nam định)
Hoa văn dòng họ trên

Họ Mai Kiên Lao ( Xuân Tiến - Xuân trường- nam định)

Hoa văn dòng họ dưới

Huyện Xuân Trường, Nam Định

500 người


THÔNG TIN TÁC GIẢ

Tuấn cùi
Họ và tên:
Địa chỉ: Nam Định
Ngày sinh: 0000-00-00
Điện thoại: 0876208075
Email: Huyyenhaihau123456@gmail.com

Chi tiết

GIỚI THIỆU Họ Mai Kiên Lao ( Xuân Tiến - Xuân trường- nam định)

I. Truyền thống xưa
 
Ngọc phả đền Kiên Lao ghi chép rằng hơn 600 năm về trước, các vị thuỷ tổ cùng dân đinh của 13 dòng họ: Bùi, Trịnh, Nguyễn, Lương, Lê, Trần, Phạm, Ngô, Vũ, Mai, Đặng, Đỗ, Đinh đã tới đây khai khẩn cồn hoang. Với khí phách của người đi mở đường, tổ tiên ngày ấy đã đoàn kết, gắn bó, cùng nhau kề vai, sát cánh vượt qua biết bao gian lao, nguy hiểm, chống chọi với thiên nhiên, bệnh tật, quyết tâm biến vùng đất hoang vu thành nơi “an cư lạc nghiệp”. Qua nhiều năm tháng ròng rã lao động dầu dãi nắng mưa, cha ông đã từng bước đào sông, đắp đường, khai phá các cồn lau hoang vu lấy đất đai canh tác. Đồng ruộng hình thành đến đâu, dân cư quần tụ sinh sống đến đó. Do đất đai khai phá từ các cồn lau nên tên làng lúc đầu được đặt là Căn Lau, sau đó đổi thành Kiên Lao - tiền thân của hai xã Xuân Kiên, Xuân Tiến ngày nay. 
 
Theo “Đại Nam nhất thống chí” và sách “Dư địa chí Nam Định”, làng Kiên Lao thời nhà Trần thuộc phủ Thiên Trường; thời nhà Minh đô hộ thuộc phủ Phụng Hoá; thời nhà Lê thuộc trấn Sơn Nam Hạ; đến thời nhà Nguyễn thuộc huyện Giao Thuỷ. Năm 1862 Vua Tự Đức đổi tên phủ Thiên Trường thành phủ Xuân Trường và chia làm 12 tổng. Kiên Lao là một làng lớn được lấy tên đặt cho một tổng, đó là tổng Kiên Lao. Qua mấy lần chia tách, đến sau Cách mạng Tháng Tám thì bỏ cấp tổng, thành lập xã Kiên Lao. Ngày 15-10-1952, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, xã Kiên Lao được đổi thành xã Xuân Kiên. Đến giữa năm 1956, sau cải cách ruộng đất, xã Xuân Kiên được tách thành hai xã Xuân Tiến và Xuân Kiên.
 
Trong quá trình dựng làng, giữ đất, để chống lại thiên tai, giặc dữ, người dân Kiên Lao sớm biết đoàn kết, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn, hoạn nạn, tạo nên nét đẹp truyền thống, tình làng nghĩa xóm, sớm hôm “tắt lửa tối đèn” có nhau. Mang đậm dấu ấn, phong tục tập quán của cư dân nông nghiệp đồng bằng châu thổ sông Hồng, đời sống tâm linh của người dân Kiên Lao gắn liền với việc tôn thờ trời Phật và thờ cúng tổ tiên. Cùng với quá trình hình thành làng, xã, đạo Phật ở đây đã phát triển nhanh dưới thời phong kiến. Cách đây hơn 400 năm, nhân dân đã xây dựng ngôi chùa Kiên Lao có tên gọi Sùng Phúc Tự ở phía bắc làng trên một khu đất rộng, u tịch nhưng thoáng mát với những đường nét kiến trúc cổ kính, huyền bí. Cách đó không xa, nằm ở phía trước chùa làng là ngôi đền Kiên Lao đồ sộ, trầm mặc thờ tướng quân Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục) và 2 hộ tướng của ông là Nguyễn Phúc và Nguyễn Lộc, những người có công mở đất, đánh giặc cứu nước. Hiện nay, đền còn lưu giữ được 19 đạo sắc phong từ đời Cảnh Hưng thứ 44 (vào năm 1783) đến đời Khải Định thứ 9 (năm 1924). Trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, đền và chùa Kiên Lao còn là nơi hội họp của cán bộ, đảng viên, nơi che giấu cán bộ, nơi cất trữ tài liệu và là địa điểm để quân ta mai phục đánh địch. Vì vậy, đền và chùa Kiên Lao đã được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia. Hằng năm, vào tiết xuân, dân làng tưng bừng mở hội. Theo lệ xưa, cứ 3 năm làng mở hội một lần vào tháng Giêng âm lịch. Tại đền và chùa tổ chức cúng lễ linh đình và rước kiệu quanh làng, cờ trống nhộn nhịp, các tín đồ, phật tử, nhân dân tham gia rất đông vui. Trong các ngày hội, sân đình, sân chùa sôi nổi các trò chơi dân gian như thi thổi cơm; làm bánh để cúng tế cầu cho nước thịnh, dân an. Đặc biệt trong lễ hội còn có các tiết mục đi kheo, đấu vật, cờ người hấp dẫn thu hút không chỉ nhân dân địa phương và ở khu vực lân cận mà cả người xa quê từ khắp mọi miền đất nước và khách thập phương cùng tụ hội, thành kính hướng về tổ tiên, góp phần bảo tồn nét đẹp văn hoá cội nguồn. Cùng với đạo Phật, đạo Công giáo ở vùng đất này cũng phát triển khá mạnh ngay từ khi các giáo sĩ phương Tây truyền đạo vào Xuân Trường giữa thế kỷ XVI. Nhà thờ xứ Kiên Lao lúc đầu xây dựng ở phía tây bắc làng, sau ngôi chùa và gần chợ Lau Sáng. Năm 1952, nhà thờ xứ Kiên Lao bị giặc Pháp nã đại bác làm hư hỏng nặng. Sau hoà bình lập lại ở Đông Dương năm 1954, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, giáo dân đã đóng góp tu bổ. Đến năm 1994, do dân số phát triển, nhà thờ Kiên Lao tiếp tục được xây dựng mới to đẹp, bề thế hơn đáp ứng nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân. Hiện tại, xã Xuân Kiên có gần 10% dân số theo đạo Công giáo, tỷ lệ này ở xã Xuân Tiến là hơn 80%.
 
Kiên Lao là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, có truyền thống hiếu học lâu đời. Sau quá trình khai hoang mở đất, làng xóm dần đi vào ổn định, ông cha đã nghĩ ngay đến việc tìm thầy dựng lớp để lo việc học hành cho con cháu. Xuất phát từ nhận thức ấy mà trước đây ở làng đã có các lớp học chữ Hán do các ông đồ mở. Mặc dù cuộc sống còn bộn bề khó khăn, nhưng với tinh thần hiếu học, tôn vinh các bậc danh nho, làng đã xây Văn Chỉ để ghi danh những người đỗ đạt. Làng còn xây miếu Tiên Hiền để thờ ông Ngô Duy Đẩu và hai anh em ông Ngô Tấn Cung, Ngô Tấn Ry cùng đỗ tiến sĩ vào cuối đời Hậu Lê. Khi giặc Pháp đô hộ thực hiện chính sách ngu dân để dễ bề cai trị nên các lớp học chữ ở làng dần bị xoá bỏ. Tuy nhiên với truyền thống hiếu học, nhiều gia đình vẫn lén lút cho con theo thầy học chữ, học đạo với mong muốn làm người tốt để giúp làng, giúp nước. Từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay, nhiều người bằng tài năng và nỗ lực học tập, không ngừng phấn đấu đã trở thành những cán bộ trung, cao cấp của Đảng, Nhà nước như các đồng chí: Đinh Khắc Anh, đại biểu Quốc hội khoá 1 (1946); đồng chí Đinh Thế Huynh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư; Ngô Bá Cao, Bí thư Tỉnh uỷ Biên Hoà cũ, nay là tỉnh Đồng Nai; Giáo sư, tiến sĩ Lương Xuân Quỳ, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. 
 
Trải qua hơn 600 năm mở đất, dựng làng, đất và người Kiên Lao đã gắn kết nhuần nhuyễn tạo nên truyền thống tốt đẹp về lòng nhân ái, yêu nước, tinh thần hiếu học, đồng thời biết gìn giữ, bảo tồn nét đẹp văn hoá đặc trưng của làng quê Việt Nam.